Xem Phương hướng xây dựng văn hóa công sở 2024
định ra khá đầy đủ như các vấn đề liên quan đến thương mại, đầu tư, đấu thầu,
cung cấp, phát triển kinh doanh, và trong tất cả các mối quan hệ kinh doanh và
tuyển dụng khác. Họ đề cao và cho rằng đạo đức tốt có nghĩa là thành công;
xây dựng môi trường làm việc; thực hiện chính sách đối xử với công nhân viên
như một cam kết cùng sự tồn tại và phát triển.
Ở Việt Nam, tại các tổ chức có chức năng kinh doanh đã chú trọng tới
việc xây dựng văn hoá công sở từ rất lâu. Thí dụ như hệ thống ngân hàng
thương mại. Qua nghiên cứu thực tế cho thấy có tới 100% các tổ chức này
xây dựng văn hoá công sở như việc mặc trang phục, đeo thẻ công chức,
hướng dẫn khách hàng đến liên hệ công tác hay làm hồ sơ; đặc biệt là thái độ
niềm nở luôn hiện diện trên khuôn mặt các nhân viên ngân hàng.
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy
hành chính nhà nước, được sử dụng quyền lực nhà nước để thực hiện chức
năng quản lý, điều hành đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, sự
lớn mạnh của một quốc gia thể hiện ở tính chuyên nghiệp, hiện đại trong hoạt
động của bộ máy nhà nước- một thiết chế không thể thiếu đối với bất kỳ một
nhà nước nào, mà ở đó một thành phần rất quan trọng cho thiết chế đó có sứ
mệnh điều hành bộ máy chính là đội ngũ CBCC nhà nước. Đây là lực lượng
chủ công kiến tạo và thực thi công vụ, họ trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, hay
nói cách khác đây là khu vực dịch vụ công. Như vậy, lúc này CBCC với vai
trò là người phục vụ ngoài sự đòi hỏi về chuyên môn cần phải thể hiện thái độ
lịch thiệp, nhã nhặn, tôn trọng người đến liên hệ công việc. Do vậy, sự cần
thiết phải chuẩn hoá đội ngũ CBCC là một yêu cầu cấp bách đặt ra song song
với quá trình cải cách hành chính nhà nước.
Chính phủ chọn CQHCNN mà chủ thể là đội ngũ CBCC để thực hiện
văn hoá công sở trong đó có lý do lâu nay, văn hoá công sở của ta có thể nói
còn nhiều hạn chế. Điều này thể hiện ở hai điểm: Thứ nhất là một bộ mặt công
sở, thứ 2 là cung cách ứng xử của các công chức (gồm cả người quản lý và
75
nhân viên thừa hành) đối với dân- những người tìm đến công sở để đến giải
quyết mọi công việc. Hiện nay, nhiều công sở đã được thiết kế xây dựng và
trang trí đẹp mắt nhưng cái giàu không phải lúc nào cũng đi liền với cái đẹp,
sang; trang bị đồ dùng đắt tiền, bày biện lắm thứ cầu kỳ mà vẫn thiếu vẻ sang
trọng, lịch sự. Bên cạnh đó là thái độ ứng xử của một số CBCC đối với người
đến liên hệ công việc: cửa quyền, hách dịch hoặc nhẹ thì hờ hững thiếu tận tâm,
tình trạng phớt lờ, thậm chí vi phạm quyền lợi chính đáng của đối tượng đến
giải quyết công việc của CBCC có trách nhiệm vẫn còn diễn ra khá phổ biến.
Tính quốc tế hoá, khu vực hoá các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội
đòi hỏi hoạt động quản lý hành chính công phải thay đổi để phù hợp với
thông lệ quốc tế. Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đã trở thành thành viên chính
thức của tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh WTO, gia nhập và là thành
viên của các tổ chức khác trong châu lục và trên thế giới. Có thể nói, Việt
Nam đang chứng minh cho toàn thế giới biết về một đất nước không chỉ giàu
lòng yêu nước, đã đánh thắng những kẻ thù là cường quốc hùng mạnh trên
thế. Mà ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, an
ninh, quốc phòng Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới dưới ánh sáng
của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 đã đạt được nhiều thành tựu
đó là sự phát triển vượt bậc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, an
ninh quốc phòng, đối ngoại, đặc biệt là sự ổn định về chính trị, tạo tiền đề
vững chắc cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên, để quá trình hội nhập quốc tế
diễn ra một cách chủ động, hiệu quả và bền vững.
Phải có được một bộ máy hành chính chuyên nghiệp, hiện đại với các
thủ tục nhanh gọn, thái độ phục vụ của đội ngũ CBCC trong bộ máy đó phải
nhiệt tình, niềm nở, đảm bảo cả về đức và tài. Bởi vậy, việc xây dựng, đào tạo
đội ngũ CBCC có phẩm chất đạo đức, năng lực để sẵn sàng nhận và hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao đòi hỏi nhà nước phải đưa ra những chế tài cụ
thể nhằm điều chỉnh các quan hệ, thái độ của đội ngũ CBCC trong khi thực
76
thi công vụ. Qua đánh giá ở trên cho thấy thực trạng đội ngũ CBCC còn tồn
tại và bộc lộ những hạn chế về chất lượng và số lượng. Chẳng hạn, như vấn
đề ngoại ngữ; khoa học, công nghệ; văn hoá giao tiếp ứng xử, đặc biệt là thái
độ phục vụ, ý thức trách nhiệm và tự chịu trách nhiệm trong công việc.
Tóm lại, từ sự phân tích ở trên cho thấy sự cần thiết phải xây dựngvà
thực hiện quy chế văn hoá công sở mà chủ thể là CBCC trong CQHCNN. Đó
cũng là nội dung quan trọng trong kế hoạch cải cách hành chính nhà nước, là
yêu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu của mọi quốc gia ở các giai đoạn phát
triển khác nhau. Đó cũng là cách thức làm cho bộ máy quản lý hành chính
nhà nước của ta hoạt động có hiệu quả hơn, đáp ứng được đòi hỏi của xã hội
và thúc đẩy xã hội phát triển bền vững góp phần vào thắng lợi chung của công
cuộc cải cách nền hành chính Việt Nam xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
3.2. Phương hướng nâng cao văn hoá công sở trong các cơ quan hành
chính nhà nước ở nước ta hiện nay
3.2.1. Nâng cao nhận thức về văn hoá công sở trong các cơ quan hành
chính nhà nước
Nói đến văn hoá công sở là nói đến một nền nếp văn hoá làm việc khoa
học, có kỷ cương, dân chủ. Nó đòi hỏi các nhà lãnh đạo, quản lý cũng như toàn
bộ thành viên của công sở phải quan tâm đến hiệu quả hoạt động chung của cơ
quan mình. Muốn như vậy cán bộ phải tôn trọng kỷ luật cơ quan, công sở, phải
chú ý đến danh dự của cơ quan trong việc ứng xử với mọi người, đoàn kết và
hợp tác trên những nguyên tắc chung, chống lại bệnh quan liêu, hách dịch, cơ
hội. Như thế niềm tin của cán bộ với công sở sẽ được củng cố, phát triển cùng
với quá trình xây dựng cơ quan, công sở. Biểu hiện của văn hoá công sở có thể
thấy ngay trong các quy chế, quy định, nội quy điều lệ hoạt động có tính chất bắt
buộc mọi thành viên của cơ quan thực hiện. Nhưng đặc trưng của văn hoá đòi
hỏi các quy chế, quy định qua một thời gian áp dụng lâu dài tại công sở phải tạo
77
nên những thói quen về nền nếp làm việc có tính chuẩn mực mà mọi người đều
phải tự giác thực hiện. Vì ước muốn và tin tưởng ở sự lớn mạnh của cơ quan
mình, theo truyền thống văn hoá công sở, các quy chế, điều lệ sẽ được các thành
viên trong công sở thực hiện mà không cần có một sự áp đặt thường xuyên nào.
Chính tính tự giác đó làm cho một công sở này vượt lên khác hẳn một công sở
khác, cho dù đôi khi chúng có thể cùng hoạt động trong một lĩnh vực và có một
môi trường như nhau. Như vậy, sự nhận thức đúng đắn về văn hoá công sở sẽ là
cơ sở vững chắc cho việc thực hiện văn hoá công sở một cách tự nguyện.
Trong quá trình thực hiện văn hoá công sở phải chú ý đến sự hình thành
của văn hoá vai trò, văn hoá quyền lực và văn hoá tổ chức. Sự xuất hiện các
yếu tố văn hoá đó cũng là tất yếu, bởi lẽ văn hoá công sở xuất phát từ vai trò
của chính công sở trong đời sống xã hội và trong hoạt động của bộ máy hành
chính mà nó là một bộ phận cấu thành. Sự xuất hiện của các loại văn hoá trên
sẽ thúc đẩy văn hoá công sở ngày một hoàn thiện hơn, đồng thời giữa chúng
có mối quan hệ biện chứng tạo nên một thể thống nhất trong cơ chế vận hành
của bộ máy hành chính nhà nước.
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với chương trình cải các hành
chính nhà nước nói chung và văn hoá công sở nói riêng
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam về cải cách hành chính, cụ thể đẩy
mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về kinh
tế, xã hội. Đẩy nhanh công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cả bốn
mặt: chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ và phương hướng hoạt
động. Định rõ những việc nhà nước phải làm và đảm bảo đủ các điều kiện để
làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hoá
nền hành chính nhà nước. Điều chỉnh chức năng của Chính phủ đúng với vai
trò là CQHCNN cao nhất. Xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước
78
về kinh tế- xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển của giai đoạn mới. Chính
phủ tập trung vào việc hoạch định thể chế, chính sách, xây dựng biện pháp,
cải cách thủ tục hành chính, tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
động kinh tế, xã hội; nâng cao năng lực và hiệu quả chỉ đạo thực hiện, kiểm
tra, thanh tra thực hiện quy chế, xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà
nước về kinh tế, xã hội của cơ quan công quyền các cấp.
– Xác định tầm quan trọng của cải cách hành chính, nhất là trong giai đoạn
hiện nay, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã giành riêng Hội Nghị Trung
ương 5 để bàn về Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy nhà nước. Với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật,
Hội nghị đã chỉ rõ: Nền hành chính nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ
thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan
trong hệ thống hành chính nhà nước chưa rõ ràng, còn trùng lắp và chưa bao quát
hết các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù
hợp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu; tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý tài
chính công tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn nhiều bất cập. Thủ tục hành chính còn
nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỉ luật, kỉ cương cán bộ,
công chức chưa nghiêm; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém[17, tr. 156]. Những yếu kém này có khuyết điểm trong chỉ đạo của các cấp uỷ
đảng trong việc thực hiện cải cách hành chính và thủ tục hành chính còn thiếu thống
nhất, chưa thống nhất, chưa gắn kết đồng bộ giữa cải cách hành chính với đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và cải cách lập pháp, cải
cách tư pháp, làm cho cải cách hành chính chậm và hiệu quả thấp [18, tr. 157].
– Thường xuyên làm tốt công tác chính trị tư tưởng cho CBCCVC và
quán triệt đầy đủ nội dung nghị quyết của đảng về công tác cải cách hành
chính, công tác cán bộ, công tác văn hoá. Coi đây là những nhiệm vụ chính trị
79
phải được duy trì thường xuyên và không ngừng học tập, nghiên cứu nâng cao
trình độ lý luận qua đó rèn luyện bản lĩnh chính trị, lập trường kiên định,
vững vàng để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có lối sống giản dị, trong
sáng, xử sự có văn hoá trong mọi hoàn cảnh.
– Thực hiện quan điểm Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý là để đảm
bảo quyền làm chủ của nhân dân. Cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo,
vừa là công bộc của nhân dân [17, tr. 304]. Hơn ai hết, mỗi CBCCVC cần
xác định rõ vị trí, vai trò là người công bộc của nhân dân, từ đó sẵn sàng nhận
và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, thực hiện Chỉ thị của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về cuộc vận động học tập và làm
theo tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày 03
tháng 02 năm 2007 đến hết nhiệm kỳ khoá X của Đảng, mỗi CBCCVC tự soi
rọi vào bản thân mình xem đã làm được gì và cần tiếp tục thực hiện công việc
như thế nào cho hiệu quả, nhất là việc tự rèn luyện bản thân ngày một hoàn
thiện về đức và tài nhằm đáp ứng tốt yêu cầu đặt ra trong tình hình mới.
– Tại Hội nghị Trung ương 9 khoá X của Ban chấp hành Trung ương
Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Kết luận số 37-KL/TW về Tiếp tục đẩy
mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020. Theo đó, công tác
cán bộ được coi là nhiệm vụ then chốt của Đảng. Sự thành công hay thất bại
của cách mạng phụ thuộc phần lớn vào tài đức của cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ, Người coi đây là công
việc gốc của Đảng; đồng thời Người khẳng định: Phải đào tạo một đội ngũ
cán bộ có gan làm việc, ham làm việc.
3.2.3. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật
Ngoài các phương hướng là nâng cao nhận thức về văn hoá công sở
cho CBCNVC, sự lãnh đạo của Đảng thì vấn đề tuyên truyền, giáo dục, phổ
biến pháp luật lại nắm một vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới
việc nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế văn hoá công sở.
80
Thông qua các hợt động tổ chức tập huấn, nói chuyện, sinh hoạt chuyên
đề pháp luật về văn hoá công sở (có thể lồng ghép sinh hoạt với đảng bộ, chi
bộ, cơ quan, đoàn thể; sinh hoạt ngày pháp luật tại cơ quan, đơn vị); trên các
phương tiện thông tin đại chúng: Báo; Đài truyền thanh; Trang thông tin điện
tử; Bản tin; Xây dựng các chuyên trang, chuyên mục.
Xây dựng mô hình điểm về tuyên truyền, phổ biến pháp luật về văn hoá
công sở; Các cơ quan ban ngành cần chỉ đạo để mỗi cơ qaun có những quy
định về văn hoá công sở riêng cho mỗi cơ quan nằm nâng cao tính thực tế cho
các quy định của pháp luật. Ngoài ra, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
phải có cơ sở pháp lý vững chắc cho việc triển khai hoạt động, đặc biệt là các
hoạt động phố hợp của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị trong
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ. Các hoạt động giáo dục,
phổ biến pháp luật phải đi vào nề nếp theo kế hoạch, chương trình cụ thể với
nhiều hình thức, biện pháp thực hiện phù hợp với từng nhóm đối tượng được
giáo dục, phổ biến và điều kiện của địa bàn thực hiện.
Các hình thức phổ biến giáo dục, tuyên truyền phải mang tính chất phong
phú, đa dạng, tránh nhàm chán khi tuyên truyền, bởi việc tuyên truyền có ý
nghĩa rất lớn mang tính chất trực tiếp và đi nhanh vào thực tiễn hơn các định
hướng khác. Tránh việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục mang tính phong trào.
3.3. Các giải pháp nâng cao văn hoá công sở trong các cơ quan hành
chính nhà nước ở nước ta hiện nay
Thực hiện tốt văn hoá công sở là nội dung quan trọng đối với mỗi
CQHCNN nói riêng và toàn xã hội nói chung. Như đã trình bày ở chương 1 về
lý luận văn hoá công sở, theo đó chúng ta hiểu văn hoá công sở xuất phát từ
chính vai trò của công sở trong đời sống xã hội và trong hoạt động của bản thân
bộ máy hành chính. Như vậy, văn hoá công sở là một dạng đặc thù của văn hoá
xã hội bao gồm tổng thể các giá trị, chuẩn mực, cách hành xử trong hoạt động
công vụ mà các chủ thể của CQHCNN là CBCCVC cùng hướng tới thực hiện
81
và ứng xử với nhau trong tại công sở và phục vụ xã hội với sự tác động của hệ
thống quan hệ thứ bậc mang tính quyền lực và tính xã hội. Quan niệm như vậy
là dựa trên đặc thù của công sở- công sở là một tập hợp có tổ chức dựa trên
quan hệ thứ bậc: cấp trên- cấp dưới; nhân viên- nhân viên; nhân viên- nhân
dân. Đây cũng chính là mối quan hệ ràng buộc của ba nhóm yếu tố: quyền lựcphục tùng; nhu cầu- phục vụ; hiệu lực hiệu quả. Các thành viên trong công sở
gắn bó với nhau bởi sự chi phối của cơ cấu tổ chức, công việc, lợi ích, tình
cảm. Tính đặc thù như trên đã quy định tính đặc thù của văn hoá công sở- một
thực thể của văn hoá. Vì vậy, công sở muốn tồn tại bền vững, phát huy có hiệu
lực, hiệu quả đồng thời không ngừng phát triển thì trước hết phải dựa vào trình
độ nhận thức, môi trường văn hoá và các mối quan hệ trong xã hội ở những
giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, để thực hiện tốt văn hoá công sở tại các
CQHCNN cần thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau:
3.3.1. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về văn hoá công sở
Từ thực tiễn khảo sát và nghiên cứu, chúng tôi thấy để xây dựng một
nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, thực sự là một bộ máy hành chính
công quyền phục vụ nhân dân đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới cũng như góp phần vào sự thắng lợi của công cuộc cải
cách hành chính mà Nhà nước ta đang triển khai và thực hiện theo lộ trình và
kế hoạch đã định; đồng thời phù hợp với xu thế hội nhập với các nền hành
chính của các nước trong khu vực và trên thế giới; nâng cao giá trị pháp lý để
thuận lợi cho quá trình thực thi, thì cần dự thảo và đưa quy chế lên thành nghị
định. Theo đó, sẽ quy định chi tiết từng hành vi về văn hoá công sở kèm theo
đó là các chế tài xử lý. Nội dung của Nghị định này sẽ dựa trên hai nguồn
chính là Luật Cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2010 và Quy chế văn hoá công sở ban hành kèm theo Quyết định số
129/QĐ-TTg ngày 02 tháng 8 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể:
Nghị định về Văn hoá công sở sẽ kết cấu 6 chương. Theo đó,
82
– Chương 1: Những quy định chung; Đối tượng và phạm vi điều chỉnh:
+ Mở rộng đối tượng áp dụng không chỉ CQHCNN mà tất cả các cơ
quan như các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức xã hội, tổ
chức xã hội- nghề nghiệp đều phải thực hiện quy định của pháp luật về văn
hoá công sở. Qua đó, tạo ra một phong trào rộng khắp trong toàn xã hội và trở
thành thói quen đối với tất cả mọi người.
+ Mở rộng phạm vi áp dụng quy chế này với các cơ quan ngoại giao,
Đại sứ quán ở các nước trên thế giới.
– Chương 2: Quy định về hành vi ứng xử và giao tiếp. Trong đó có quy
định về việc phải làm và những việc không được làm của CBCCVC; Giao
tiếp và ứng xử giữa lãnh đạo với CBCCVC dưới quyền; Giữa CBCCVC với
nhau; CBCCVC với khách, nhân dân; Chế độ báo cáo, phát ngôn.
– Chương 3: Quy định về Lễ tiết, tác phong; Thái độ khi thực thi công
vụ, như: thái độ phải niềm nở, nét mặt phải tươi cười của CBCCVC khi giao
tiếp với nhân dân.
– Chương 4: Quy định về bài trí công sở, phòng làm việc như: treo biển
cơ quan; niêm yết tên công chức làm việc của từng phòng; nội quy, sơ đồ cơ
quan, hướng dẫn thủ tục khi khách đến giao dịch.
– Chương 5: Khen thưởng, kỷ luật.
– Chương 6: Điều khoản thi hành.
3.3.2. Thường xuyên tổng kết, đánh giá thực tiễn về văn hoá công sở trong
các cơ quan hành chính nhà nước
Định kỳ hàng quý các cơ quan, đơn vị phải có báo cáo kết quả và đánh
giá việc thực hiện quy chế văn hoá công sở tại cơ quan đơn vị mình dựa trên
những số liệu cụ thể, khách quan qua đó xác định những khó khăn, hạn chế
trong quá trình triển khai và tổ chức thực hiện; nêu gương, khen thưởng
những các nhân, tổ chức thực hiện tốt và có sáng kiến hay cần nhân rộng; có
hình thức kỷ luật những cá nhân, tổ chức không thực hiện hay thực hiện
83
không đầy đủ các nội dung mà quy chế đã quy định cũng như trong các quy
định về CBCCVC không được làm.
– Hàng năm nên tổ chức tôn vinh CBCCVC, là lực lượng đi đầu trong
sự nghiệp đổi mới, đại diện cho kinh tế tri thức thực hiện tốt văn hoá công sở
thông qua nhiều hình thức khác nhau như: tổng kết công tác năm, thông qua
các cuộc thi, bình chọn trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đặc biệt,
cần có chính sách khuyến khích để động viên, thu hút nhân tài.
– Lựa chọn những cá nhân, đơn vị tiêu biểu để triển khai học tập và
nhân điển hình tiên tiến; đồng thời cũng dự kiến tiêu chí để xây dựng cơ quan
văn hoá coi đó là tiêu chí đánh giá thi đua và chất lượng công tác của cán bộ,
công chức và của cơ quan. Công tác này phải được duy trì thường xuyên, lâu
dài tạo thành một nội dung không thể thiếu trong hoạt động công vụ của cán
bộ, công chức trong CQHCNN. Muốn vậy, đòi hỏi sự quan tâm chỉ đạo của
lãnh đạo cơ quan, sự đồng tình hưởng ứng của cán bộ, công chức, sự giám sát,
động viên của mọi tầng lớp nhân dân. Nên thành lập các tổ tự quản để đôn
đốc việc thực hiện văn hoá công sở và giúp cho lãnh đạo cơ quan nắm tình
hình và kết quả thực hiện văn hoá công sở.
3.3.3. Nâng cao hiệu quả của thanh tra công vụ về thực trạng văn hoá công
sở trong các cơ quan hành chính nhà nước
Thực tế trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt
được thì việc cải cách hành chính chưa đạt kết quả như mong muốn, chưa đáp
ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới: Cải cách hành chính tiến bộ chậm
so với mong muốn của nhân dân, doanh nghiệp, trong đó việc ban hành một
số cơ chế, chính sách chưa kịp thời và chưa đồng bộ, các thủ tục hành chính
chậm được cải tiến, công tác kiểm tra, giám sát thực hiện các chính sách, pháp
luật của nhà nước chưa được thực hiện thường xuyên, mối quan hệ giữa một
số cơ quan nhà nước với người dân còn nhiều bất cập, năng lực của đội ngũ
cán bộ, công chức còn nhiều hạn chế, sa sút về phẩm chất đạo đức, nhũng
nhiễu dân đang là cản trở cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
84
Những khó khăn, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân khách quan
nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, trong đó cơ bản là do tình trạng vi
phạm kỷ luật hành chính còn khá phổ biến, việc triển khai thực hiện các quyết
định, chỉ thị của cấp trên còn chậm và thiếu nghiêm túc, tuỳ tiện đặt ra những
quy định bất hợp lý; phẩm chất của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức
còn thấp, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với công việc được giao, lại thiếu sự
kiểm tra giám sát nên vẫn còn một bộ phận không nhỏ viên chức lợi dụng gây
phiền hà, nhũng nhiễu, khó khăn, chậm trễ trong việc giải quyết các yêu cầu của
dân, của doanh nghiệp. Có thể nói rằng chất lượng đội ngũ công chức, thủ tục
hành chính phiền hà đang là sự cản trở đối với sự nghiệp phát triển đất nước.
Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XI, Báo cáo của Chính phủ đã nhấn
mạnh: Đặt Thanh tra công vụ thành một công tác thường xuyên trong
chương trình làm việc của cán bộ lãnh đạo. Việc xiết chặt kỷ luật, kỷ cương
hành chính đi đôi với việc thực hiện nghiêm chỉnh các quy chế dân chủ, công
khai trong hoạt động của các cơ quan hành chính và cán bộ, công chức là giải
pháp quan trọng nhất trong lúc này để làm trong sạch bộ máy, chống quan
liêu, tham nhũng, nâng cao uy tín và hiệu lực quản lý nhà nước.
Báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khoá
XI tiếp tục khẳng định Tăng cường kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong
việc thực hiện chế độ công vụ của cán bộ, công chức. Sớm ban hành một văn
bản quy phạm pháp luật về thanh tra công vụ.
Như vậy, để nhanh chóng chấn chỉnh bộ máy, ngăn chặn và đẩy lùi quan
liêu, tham nhũng, yêu cầu đặt ra là trước mắt phải tạo được chuyển biến tích
cực trong một số việc cần chấn chỉnh đối với bộ máy hành chính, trong đó nhấn
mạnh cần tăng cường thanh tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện chế độ công
vụ của cán bộ, công chức, đặt thanh tra công vụ thành một công tác thường
xuyên trong chương trình làm việc của cán bộ lãnh đạo và phải được coi là một
trong những giải pháp định hướng chủ yếu về các cơ chế, chính sách để thực
85
Bạn đang tìm hiểu bài viết: Phương hướng xây dựng văn hóa công sở 2024
HỆ THỐNG CỬA HÀNG TRÙM SỈ QUẢNG CHÂU
Điện thoại: 092.484.9483
Zalo: 092.484.9483
Facebook: https://facebook.com/giatlathuhuongcom/
Website: Trumsiquangchau.com
Địa chỉ: Ngõ 346 Nam Dư, Trần Phú, Hoàng Mai, Hà Nội.