Chính sách sản phẩm của công ty lữ hành 2024

Xem Chính sách sản phẩm của công ty lữ hành 2024

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

trương của doanh nghiệp về việc hạn chế, duy trì, phát triển và mở rộng đổi mới các
mặt hàng dịch vụ nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng với hiệu quả cao phù hợp với
các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm và phù hợp với khả năng của doanh nghiệp.
1.2.2 Vị trí chính sách sản phẩm trong hệ thống Marketing  mix
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, việc tạo ra giá trị đối với khách
hàng và thoả mãn họ là nhiệm vụ trọng tâm. Có rất nhiều nhân tố đóng góp vào sự
thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thuộc
các loại hình khác nhau kinh doanh thành công trên thị trường có chung một nhân tố,
đó là họ đã hướng tới khách hàng một cách chặt chẽ và thực hiện các hoạt động
marketing mạnh mẽ. Chính vì vậy, đối với các doanh nghiệp kinh doanh du lịch, việc
tiến hành các hoạt động marketing có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sự thành công
trong marketing phụ thuộc vào sự hoàn chỉnh của sản phẩm và chính sách sản phẩm,
trong việc thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng thông qua các quyết định
cơ bản trong quản lý sản phẩm. Doanh nghiệp không thể quyết định giá sản phẩm,
xây dựng hệ thống kênh phân phối, các hoạt động quảng cáo nếu doanh nghiệp chưa
xác định được một sản phẩm, dịch vụ kết hợp nhằm cung cấp giá trị thực tế đối với
khách hàng mục tiêu, động cơ mua sắm và thoả mãn các mong muốn của khách hàng.
– Chính sách sản phẩm là nền tảng là xương sống của chiến lược chung
marketing.
+ Chỉ khi hình thành được chính sách sản phẩm, doanh nghiệp mới có
phương hướng đầu tư, nghiên cứu thiết kế, sản xuất hàng loạt. Nếu chính sách sản
phẩm không đảm bảo một sự tiêu thụ chắc chắn nghĩa là doanh nghiệp không có thị
trường chắc chắn về sản phẩm thì những hoạt động nói trên sẽ rất mạo hiểm.
+ Chỉ khi thực hiện tốt chính sách sản phẩm, các chính sách giá cả, phân
phối, giao tiếp khuyếch trương mới có điều kiện triển khai một cách có hiệu quả.
Chẳng hạn khi doanh nghiệp tung ra một sản phẩm mới với các đặc tính sử dụng và
chất lượng cao doanh nghiệp dễ dàng đưa nó vào kênh tiêu thụ và có thể nâng giá
bán mà khách hàng vẫn vui lòng mua và những tuyên truyền quảng cáo của doanh
nghiệp mới thực sự đi vào lòng người.
– Chính sách sản phẩm đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện được các mục

SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

17

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

tiêu của chiến lược chung marketing.
+ Mục tiêu lợi nhuận: Chất lượng, số lượng sản phẩm, sự mở rộng hay thu
hẹp chủng loại sản phẩm, chi phí sản xuất và mức giá có thể bán được của mỗi loại
sản phẩm thường là những yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau và sẽ quyết định
mức độ lợi nhuận của doanh nghiệp. Cụ thể: Chất lượng sản phẩm phù hợp  tạo
ra uy tín cho doanh nghiệp  số lượng bán tăng  doanh thu tăng.
+ Mục tiêu thế lực: Doanh nghiệp có thể tăng được doanh số bán, mở rộng
thị trường hay không sẽ tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng thâm nhập thị trường, mở
rộng chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể lôi kéo được
khách hàng về phía mình hay không phần lớn tuỳ thuộc vào chất lượng nhãn hiệu,
uy tín sản phẩm của doanh nghiệp đối với họ.
+ Mục tiêu an toàn: Chính sách sản phẩm bảo đảm cho doanh nghiệp một sự
tiêu thụ chắc chắn, tránh cho doanh nghiệp khỏi những rủi ro, tổn thất trong kinh
doanh. Điều đó liên quan chặt chẽ với chính sách đa dạng hoá sản phẩm.
1.3. Nội dung của chính sách sản phẩm.
1.3.1 Chủng loại sản phẩm và danh mục sản phẩm
Theo GS.TS Trần Minh Đạo (2006, tr.249-250), Giáo trình marketing căn bản,
NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, thì:
Chủng loại sản phẩm là một nhóm sản phẩm có liên quan chặt chẽ với
nhau do giống nhau về chức năng hay do bán chung cho cùng một nhóm khách
hàng, hay thông qua cùng những kiểu tổ chức thương mại, hay trong khuôn khổ
cùng một dãy giá.
Danh mục sản phẩm là tập hợp tất cả các chủng loại sản phẩm và các đơn
vị sản phẩm do một người bán cụ thể đem chào bán cho người mua.
Danh mục sản phẩm được phản ánh qua 4 thông số:
– Chiều dài: là tổng số sản phẩm trong danh mục. Nó phản ánh mức độ đa
dạng hóa sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường. Đồng thời nó cũng phản ánh
mức độ rủi ro của sản phẩm kinh doanh.
– Chiều rộng: là tổng số các chủng loại sản phẩm do công ty sản xuất.

SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

18

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

– Chiều sâu: là tổng số các phương án của đơn vị sản phẩm cụ thể được chào
bán trong từng mặt hàng riêng của một chủng loại.
– Mức độ tương thích: là mức độ phù hợp giữa các dòng sản phẩm trong danh
mục. Nó tạo nên sự phù hợp giữa hệ thống dịch vụ của doanh nghiệp và nhu cầu
của khách hàng
Bốn thông số đặc trưng cho danh mục sản phẩm mở ra cho doanh nghiệp bốn
hướng chiến lược mở rộng danh mục sản phẩm.
1.3.2 Quyết định về chủng loại sản phẩm
Trước khi quyết định về chủng loại sản phẩm, các doanh nghiệp cần phải phân
tích chủng loại. Thông qua việc phân tích doanh số lợi nhuận của từng mặt hàng
trong từng chủng loại và khả năng cạnh tranh của những sản phẩm này so với dối
thủ cạnh tranh. Từ đó doanh nghiệp đưa ra các lựa chọn và quyết định đúng đắn,
sáng suốt về chủng loại sản phẩm. Các doanh nghiệp lữ hành thường phải đứng
trước hai lựa chọn. Một là quyết định về kéo dài chiều dài của chủng loại. Hai là
quyết định loại bỏ sản phẩm.
* Quyết định về kéo dài chiều dài chủng loại sản phẩm
Các doanh nghiệp khi quyết định kéo dài chiều dài của chủng loại sản phẩm
tức là doanh nghiệp đã bổ sung mặt hàng cho chủng loại sản phẩm. Việc bổ sung
này xuất phát từ mục đích:

Mong muốn có thêm lợi nhuận
Để lấp chỗ trống trong chủng loại hiện có
Muốn tận dụng năng lực sản xuất dư thừa
Mưu toan trở thành công ty chủ chốt với chủng loại hàng hóa đầy đủ
Muốn xóa bỏ những chỗ trống không có đối thủ cạnh tranh
Các doanh nghiệp thường kéo dài theo 3 hướng:
– Phát triển hướng xuống dưới: Doanh nghiệp lúc đầu chiếm lĩnh phần phía

trên của thị trường rồi dần dần mở rộng chủng loại của mình để chiếm lĩnh cả
những phần phía dưới. việc phát triển hướng xuống dưới có thể kìm hãm đối thủ
cạnh tranh tiến công hay xâm nhập vào những phần thị trường đang phát triển
nhanh nhất.
– Phát triển hướng lên trên: Doanh nghiệp đang hoạt động ở những phần bên
dưới của thị trường có thể muốn xâm nhập những phần lớn ở bên trên. Họ có thể bị
SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

19

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

hấp dẫn bởi nhịp độ tăng trưởng hay khả năng sinh lời cao hơn của phần thị trường
phía trên. Cũng có thể doanh nghiệp chỉ muốn xác lập vị trí của mình như là một
người sản xuất chủng loại sản phẩm đầy đủ. Quyết định phát triển hướng lên trên có
thể là mạo hiểm. Những đối thủ cạnh tranh ở phía trên không những đã chiếm lĩnh
vững chắc vị trí của mình mà còn có thể chuyển sang phản công bằng cách xâm
nhập những phần phía dưới của thị trường. Những khách hàng tiềm năng có thể
không tin rằng một doanh nghiệp mới lại có đủ khả năng sản xuất sản phẩm chất
lượng cao. Và những nhân viên bán hàng, phân phối không có đủ năng lực phục vụ
phần bên trên của thị trường.
– Phát triển theo hai hướng: Một doanh nghiệp đang hoạt động ở phần giữa thị
trường có thể quyết định phát triển chủng loại sản phẩm theo cả hướng lên và
hướng xuống. Để thực hiện mục tiêu này các doanh nghiệp thường xâm nhập vào
thị trường bên trên bằng các chính sách sản phẩm hoàn hảo với giá rẻ hơn đối thủ
cạnh tranh và xâm nhập xuống dưới bằng chính sách đảm bảo chất lượng và hạ giá
sao cho phù hợp với túi tiền của khách hàng.
Tuy nhiên khi bổ sung các sản phẩm mới, doanh nghiệp cũng cần phải tính đến khả
năng mức tiêu thụ các sản phẩm khác. Để đảm bảo giảm bớt ảnh hưởng này công ty
cần đảm bảo chắc chắn rằng sản phẩm mới khác hẳn sản phẩm đã có.
* Quyết định loại bỏ sản phẩm
Trong một số hoàn cảnh doanh nghiệp cũng phải tính đến quyết định loại bỏ
sản phẩm, điều đó phải dựa trên những phân tích trước đó về thành tích kinh doanh
và khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường.
Khi quyết định loại bỏ sản phẩm ra khỏi thị trường, các doanh nghiệp có 4
cách giải quyết sau:
– Loại bỏ bằng cách chuyển giao công nghệ, chuyển xuống vùng có trình độ sản
xuất thấp hơn.
– Cải tiến sản phẩm.
– Tăng giá sản phẩm làm cho nhu cầu của khách hàng tự biến mất.
– Giảm giá sản phẩm để tận thu, thu được bao nhiêu hay bấy nhiêu.
1.3.3 Phát triển sản phẩm mới
Do những thay đổi nhanh chóng về thị hiếu, công nghệ, tình hình cạnh tranh,
công ty không thể tồn tại và phát triển nếu chỉ dựa vào những sản phẩm hiện có. Vì
SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

20

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

vậy, mỗi công ty đều phải quan tâm đến chương trình phát triển sản phẩm mới nếu
muốn tồn tại và phát triển với uy tín ngày càng tăng.
Vậy sản phẩm mới là gì? Theo TS. Bùi Thị Tám (2009, tr.96), marketing du
lịch, NXB Đại học Huế, thì sản phẩm mới có thể là các sản phẩm hoàn toàn mới,
sản phẩm cải tiến, sản phẩm sửa đổi, điều chỉnh, và thương hiệu mới mà doanh
nghiệp có thể phát triển thông qua các nỗ lực nghiên cứu và phát triển.
Các doanh nghiệp thường tạo ra sản phẩm mới dưới hai hình thức:.
– Một là mua toàn bộ một công ty, hoặc mua bản quyền, mua giấy phép để sản
xuất sản phẩm của một công ty nào đó.
– Hai là tự thành lập bộ phận nghiên cứu marketing và thiết kế sản phẩm mới.
Các doanh nghiệp muốn tạo ra được sản phẩm mới thì họ phải hiểu thế nào là
một sản phẩm mới. Theo quan điểm marketing, sản phẩm mới có thể là những sản
phẩm mới về nguyên tắc, sản phẩm mới cải tiến từ những sản phẩm mới hiện có
hoawch những nhãn hiệu mới do kết quả nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm của công
ty. Nhưng điều quan trọng nhất để đánh giá sản phẩm đó có phải là sản phẩm mới
hay không phải thông qua sự thừa nhận của khách hàng.
Thiết kế sản phẩm mới là công việc cực kỳ quan trọng và cần thiết. Tuy nhiên
đây cũng có thể là sự mạo hiểm của các doanh nghiệp vì quá trình phát triển sản
phẩm mới có thể thất bại do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do vậy, công việc này
đòi hỏi chuyên gia, những người sáng tạp ra sản phẩm mới phải tuân thủ nghiêm
ngặt các bước trong quá trình tạo ra sản phẩm mới và đưa nó vào thị trường.
Tóm lại, để có thể phát triển một sản phẩm mới thành công, doanh nghiệp phải
hiểu khách hàng mình muốn gì, hiểu thị trường, hiểu đối thủ cạnh tranh và phát
triển một sản phẩm mang lại giá trị ưu việt cho khách hàng.
* Quy trình phát triển sản phẩm mới
Quá trình thiết kế sản phẩm mới thường trải qua 8 bước cơ bản (1, tr.98):

SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

21

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

Phát hiện ý tưởng

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

Phát triển và thử

Lựa chọn ý tưởng

nghiệm

Thử nghiệm sản phẩm

Thương mại hóa

Phát triển sản phẩm

mới

Xây dựng chiến lược

Phân tích kinh doanh

Sơ đồ 2: Các bước chính trong phát triển sản phẩm mới
Bước 1: Phát hiện ý tưởng
Đây là giai đoạn tìm kiếm sản phẩm mới. Việc tìm kiếm phát hiện ý tưởng mới
có thể bằng nhiều cách khác nhau bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Có thể xuất
phát từ hoạt động của bộ phận R&D, cán bộ quản lý, các đối tác, nhà phân phối,
nhân viên kinh doanh… Hoặc do nghiên cứu sự thay đổi về nhu cầu của khách hàng,
thị trường để phát triển sản phẩm mới đáp ứng tốt hơn nhu cầu (mới) của khách
hàng.
Bước 2: Lựa chọn ý tưởng
Qua giai đoạn tìm kiếm phát kiến có thể thu được nhiều đề xuất, doanh nghiệp
cần sàng lọc lấy những phát kiến hay, loại bỏ những phát kiến kém. Nhưng ngay cả
trong trường hợp ý tưởng hay vẫn nảy sinh câu hỏi: liệu nó có phù hợp với mục
đích, mục tiêu chiến lược, khả năng tài chính của doanh nghiệp?… Về cơ bản, các ý
tưởng được chọn nên tương hợp với nguồn lực của doanh nghiệp, những ý tưởng
táo bạo sẽ cần nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu và triển khai. Ý tưởng tốt
sẽ hỗ trợ cho chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp như nhắm tới nguồn khách
hàng mục tiêu hoặc thoả mãn nhu cầu mới đủ lớn, khai thác hiệu quả hơn kênh phân
phối, cắt giảm chi phí không cần thiết, hoặc tận dụng được các nguồn lực sẵn có mà
không mất tiền.
Bước 3: Phát triển và thử nghiệm
Một phát kiến hay cần được phát thảo thành một ý đồ cụ thể về sản phẩm. Phát
thảo sản phẩm cần được thăm dò với khách hàng để thu lại những ý kiến phản hồi
nhằm cải tiến cho phù hợp với ý muốn của khách hàng hơn. Như vậy, sau bước này
SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

22

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

ý tưởng về sản phẩm mới sẽ đầy đủ về các yếu tố như tính năng chính của nó, cách
thức thiết kế, các giá trị gia tăng và quan trọng hơn hết là xác định được vai trò, ý
nghĩa và mục đích muốn nhắm tới khi phát triển sản phẩm này.
Bước 4: Xây dựng chiến lược
Để tăng khả năng thành công của sản phẩm mới trên thị trường, doanh nghiệp
cần thiết nghĩ đến việc thương mại hoá nó sẽ như thế nào thông qua việc phác thảo
bản kế hoạch tiếp thị ngắn ngọn. Trong đó có phân tích các yếu tố tác động chính từ
môi trường kinh doanh, năng lực của doanh nghiệp về các mặt như nhân sự, tài
chính, trang thiết bị. Đồng thời bản kế hoạch sơ thảo này cần dự báo được doanh
thu, lợi nhuận, thị phần trong ngắn hạn và dài hạn.
Bước 5: Phân tích kinh doanh
Phần nầy doanh nghiệp phân tích và phát thảo sơ bộ về tiềm năng thị trường,
chi phí đầu tư, giá bán ra, giá thành sản xuất và dự kiến lợi nhuận, qua đó để biết
sản phẩm mới có đạt yêu cầu về mục tiêu kinh doanh của công ty hay không.
Bước 6: Phát triển sản phẩm
Bước này liên quan đến phát triển mặt vật lý, kỹ thuật, hoặc thành phẩm cụ
thể. Bộ phận nghiên cứu phát triển (R&D) sẽ nghiên cứu từ những ý đồ phát thảo
để thiết kế cho ra một sản phẩm cụ thể đạt được những yêu cầu về tính năng, nhu
cầu của người tiêu dùng.
Bước 7: Kiểm nghiệm thị trường
Để cận thận hơn, doanh nghiệp có thể thực hiện việc kiểm nghiệm thị trường
bằng cách cho triển khai ở những vùng thị trường nhỏ. Công việc này nhằm mục
đích chính là đánh giá các yếu tố liên quan đến chức năng tiếp thị như giá cả, kênh
phân phối, thị trường, thông điệp quảng cáo hoặc định vị sản phẩm.
Bước 8: Thương mại hoá sản phẩm
Thương mại hoá sản phẩm là việc tung sản phẩm thực sự vào thị trường doanh
nghiệp sẽ phải xác định thị trường triển khai, cách thức triển khai, các bộ phận tác
nghiệp liên quan như bán hàng, quảng cáo, kế toán, chăm sóc khách hàng, hoặc giao
nhận.

SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

23

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

Như vậy, phát triển sản phẩm mới không phải là một công việc độc lập, nó liên
quan tới chiến lược, chính sách, cơ sở hạ tầng, nguồn lực của doanh nghiệp. Phát
triển sản phẩm mới cần gắn liền, hỗ trợ tính thống nhất với toàn bộ hoạt động của
doanh nghiệp cũng như nhu cầu thị hiếu của khách hàng và gắn liền với thị trường
cạnh tranh.
1.4 Chính sách marketing  mix hỗ trợ chính sách sản phẩm
1.4.1 Chính sách giá
Có thể thấy, định giá là phối thức marketing duy nhất liên quan trực tiếp đến
việc tạo ra doanh thu cho mỗi doanh nghiệp. Đối với nhà kinh doanh thì những kiến
thức và hiểu biết về giá cả sẽ giúp cho họ xây dựng chiến lược định giá phù hợp và
hiệu quả khi đưa ra một sản phẩm mới trên thị trường. Chính sách giá là tổng thể
các nguyên tắc chỉ đạo việc định giá và điều chỉnh giá của doanh nghiệp trong một
thời kỳ kinh doanh xác định.
Trên thực tế, các mục tiêu định giá thường gặp đối với các doanh nghiệp là:
– Đảm bảo sống sót: Đây là mục tiêu cơ bản của công ty trong những trường
hợp trên thị trường có quá nhiều nhà sản xuất, sự cạnh tranh gay gắt khắp nơi, hay
nhu cầu của khách hàng biến động mạnh. Để đảm bảo cho sự sống sót, các doanh
nghiệp buộc phải định giá thấp với hi vọng sẽ có phản ứng đáp lại của khách hàng.
– Tối đa hóa lợi nhuận: Tiến hành đánh giá nhu cầu và các chi phí cho các
mức giá khác nhau, đồng thời lựa chọn mức giá đảm bảo thu lợi nhuận trước mắt tối
đa và bù đắp các phí tổn.
– Giành vị trí dẫn đầu về các chỉ tiêu thị phần: Đối với những công ty muốn
dẫn đầu về các chỉ tiêu thị phần, họ tin nếu công ty có thị phần lớn nhất sẽ có những
chi phí nhỏ nhất và lợi nhuận lâu dài cao nhất. Để đạt được điều đó, họ chấp nhận
hạ giá tới mức tối đa có thể.
– Giành vị trí hàng đầu về các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm: Mục tiêu phấn
đấu của công ty là để sản phẩm của mình có chất lượng cao nhất trên thị trường.
Thông thường điều đó đòi hỏi phải định giá cao cho sản phẩm để bù đắp các chi phí
để đạt chất lượng cao, tiến hành công tác nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm đắt tiền.
1.4.2 Chính sách phân phối
Chính sách phân phối là phương hướng thể hiện, cách mà các nhà doanh
SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

24

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

GVHD: PGS.TS Bùi Thị Tám

nghiệp cung ứng các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng của mình. Chính sách phân
phối có mối liên hệ chặt chẽ với chính sách sản phẩm và chính sách giá cả, đồng
thời chính sách phân phối cũng tác động đến những chính sách này nhằm thu hút
khách hàng và cung cấp thông tin cho khách hàng qua kênh phân phối về chủng loại
sản phẩm của doanh nghiệp. Một sản phẩm khi sản xuất ra nếu không được phân
phối tức là sản phẩm đó không được tiêu thụ. Cho dù sản phẩm đó có tốt và giá thấp
đến đâu đi chăng nữa, nếu không được phân phối thì khách hàng sẽ không biết đến
sản phẩm và như vậy sản phẩm sẽ không tới tay người tiêu dùng được. Từ đó chúng
ta thấy chính sách phân phối là cầu nối giữa khách hàng và sản phẩm, là cơ sở để
xây dựng chính sách sản phẩm và chính sách giá cả hợp lý cho doanh nghiệp. Đây
là mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau giữa các chính sách này.
Các doanh nghiệp lữ hành cần phải quản trị kênh phân phối một cách hiệu quả
để giảm ảnh hưởng đến quá trình phân phối sản phẩm du lịch. Để làm được điều
này, doanh nghiệp cần:
– Tuyển chọn những người tham gia kênh một cách kỹ lưỡng
– Đôn đốc và đánh giá hoạt động của những người tham gia kênh theo những chỉ tiêu
như hoàn thành định mức tiêu thụ, cung ứng sản phẩm đến người tiêu dùng
– Xử lý các xung đột trong kênh kịp thời và công bằng nhằm duy trì quan hệ giữa các
kênh và bảo đảm cho sự tồn tại của sản phẩm.
1.4.3 Chính sách xúc tiến
Do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế kéo theo đó mức độ cạnh tranh trên
thị trường ngày càng gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn vận động, đổi mới
thích ứng với những biến đổi của nền kinh tế thị trường. Marketing hiện đại đòi hỏi
rất nhiều thứ, chứ không chỉ đơn giản là tạo ra sản phẩm tốt, định giá cả hấp dẫn và
đảm bảo cho những người tiêu dùng mục tiêu có thể tiếp cận sản phẩm. Các công ty
còn cần phải thiết kế và lựa chọn cách thức để thông tin cho những người đặt hàng
hiệu quả cao nhất. Đó là nội dung về chính sách xúc tiến, là chính sách không thể
thiếu đối với mỗi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Nó bao gồm
các hoạt động như quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt động khuyến mại khác.
Tuy nhiên, hiệu quả của việc kích thích tiêu thụ sản phẩm phải đáp ứng cấu trúc
AIDA (Attention  Interest  Decision  Action), nghĩa là phải gây được sự chú ý,

SVTH: Lê Thị Thảo Xuân  K43 KTDL

25

Bạn đang tìm hiểu bài viết Chính sách sản phẩm của công ty lữ hành 2024


HỆ THỐNG CỬA HÀNG TRÙM SỈ QUẢNG CHÂU

Điện thoại: 092.484.9483

Zalo: 092.484.9483

Facebookhttps://facebook.com/giatlathuhuongcom/

WebsiteTrumsiquangchau.com

Địa chỉ: Ngõ 346 Nam Dư, Trần Phú, Hoàng Mai, Hà Nội.

0/5 (0 Reviews)